Địa lý Nhị Long Phú

Tọa độ địa lý của xã nằm trong khoảng 9°58’14’’ đến 10°00’30’’ vĩ độ Bắc và từ 106°13’05’’ đến 106°16’38’’ kinh độ Đông, có vị trí địa lý:

Xã Nhị Long Phú có diện tích 11,93 km², dân số năm 2003 là 7.560 người,[2] mật độ dân số đạt 634 người/km².

Diện tích tự nhiên của xã là 1.208,95 ha.

Nguồn nhân lực

Toàn xã có dân số 8.036 nhân khẩu với 1.709 hộ, trong đó dân số trong độ tuổi lao động là 5.125 người, chiếm 63% tổng dân số toàn xã, trong đó:

  • Lao động trong ngành nông nghiệp: 3.213 người, chiếm 62,70%
  • Lao động phi nông nghiệp: 1.912 người, chiếm 37,30%.

Về trình độ lao động, số lao động có trình độ tiểu học chiếm 40%, trình độ trung học cơ sở chiếm 40% và trình độ trung học phổ thông chiếm 20%. Việc đào tạo, bồi dưỡng lao động về chuyên môn trong thời gian qua cũng đã được quan tâm với khoảng 10% có trình độ sơ cấp (3 tháng trở lên), với 5% trong nông nghiệp; Trung cấp chiếm khoảng 4%.

Địa hình

Xã Nhị Long Phú có địa hình tương đối bằng phẳng với nền địa chất ổn định. Cao độ nền tự nhiên trung bình từ 0,4m - 1m, có hướng dốc từ Bắc xuống Nam và từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Nhìn chung địa hình của xã thuận lợi cho canh tác lúa, hoa màu và cây lâu năm, cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển khu dân cư.

Khí hậu

Xã Nhị Long Phú nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa ven biển, có hai mùa rõ rệt trong năm với thời gian mưa ngắn khoảng 5 tháng, lượng mưa lớn phân hóa theo mùa tập trung từ tháng 8 - 10 (trung bình 1.600 mm). Mùa mưa bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 11, mùa khô bắt đầu từ tháng 12 và kết thúc vào tháng 4.

Nhiệt độ không khí

  • Nhiệt độ trung bình năm: 26,8 °C
  • Nhiệt độ trung bình cao nhất: 28,5 °C (tháng 4 và 5)
  • Nhiệt độ cao tuyệt đối: 35,8 °C
  • Nhiệt độ thấp tuyệt đối: 18,7 °C.

Độ ẩm không khí

  • Độ ẩm trung bình năm là 80%
  • Độ ẩm trung bình tháng cao nhất là 90% vào mùa mưa
  • Độ ẩm trung bình tháng thấp nhất là 79% vào mùa khô.

Lượng mưa

  • Lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.000 mm
  • Lượng mưa lớn nhất vào tháng 8 tới 114,5 mm/ngày.

Nắng

  • Số giờ nắng trung bình năm là 2.800 giờ
  • Tổng lượng bức xạ trung bình năm đạt: 385 - 448 cal/km²/ngày.

Gió

  • Tốc độ gió trung bình từ 1,5 – 4 m/s
  • Gió mạnh trong mùa mưa có tốc độ tới 30 – 40 m/s
  • Mùa khô, nóng: Hệ thống gió thịnh hành theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, vào tháng 11 và 12. Từ tháng 1 đến tháng 4 gió chuyển hướng dần sang hướng Đông và Đông Nam
  • Mùa mưa: Từ tháng 5 đến tháng 9 gió chuyển từ Đông Nam sang Tây Nam và Tây. Tháng 10 có gió Tây Bắc và hướng Đông.

Tài nguyên đất

Toàn xã có 2 nhóm đất chính:

  • Nhóm đất phù sa có diện tích 256,81 ha (chiếm 21,24% diện tích tự nhiên), tập trung ở các ấp: Dừa Đỏ, Dừa Đỏ 3 và Dừa Đỏ 2, đất phù sa thích hợp để trồng cây ăn quả, hoa màu, có giá trị cao
  • Nhóm đất phèn có diện tích 952,14 ha (chiếm 78,75 % diện tích tự nhiên), tập trung ở hầu hết các ấp còn lại, chủ yếu là đất phèn tiềm tàng, tầng sinh phèn xuất hiện độ sâu 50 – 80 cm, thành phần cơ giới chủ yếu là đất sét, độ dày tầng canh tác 20 – 30 cm, các chất dinh dưỡng từ trung bình đến khá, lân không cân đối. Thích hợp với nhiều loại cây trồng, tuy nhiên trong sử dụng cần chú ý biện pháp thủy lợi và khi lên liếp lập vườn tránh đưa tầng sinh phèn lên mặt liếp.

Tài guyên nước

Xã Nhị Long Phú có nguồn nước mặt khá dồi dào được cung cấp bởi lượng nước mưa tự nhiên hàng năm, cùng với lượng nước của sông Càng Long và hệ thống kênh rạch khá dày đặc. Tuy nhiên nguồn nước mặt của xã chịu ảnh hưởng theo mùa và đang bị ô nhiễm nhất định do nước thải trực tiếp từ các khu dân cư, chăn nuôi, do sử dụng hoát chất, phân bón trong sản xuất nông nghiệp (nhất là vùng chuyên canh cây xoài). Nguồn nước ngầm có trữ lượng khá dồi dào nhưng ở độ sâu khác nhau chất lượng khác nhau. Nguồn nước khai thác thường có vị lợ và có màu, không sử dụng được.

Thủy văn

Hệ thống kênh rạch tự nhiên và kênh đào khá chằng chịt tạo nên mạng lưới tiêu úng rửa phèn, rửa mặn tốt. Những năm gần đây nước mặn thường xâm nhập nội đồng, độ mặn cao và thời gian kéo dài.

Chế độ thủy triều chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều biển Đông, trong ngày nước lên xuống hai lần, mỗi tháng có hai lần triều cường sau ngày mồng 01 và ngày 15 âm lịch(thời gian từ 2÷3 ngày), biên độ triều cường hằng ngày rất lớn, nhất là khu vực gần cửa sông.

Liên quan